Cộng hòa Đệ Nhị Cộng hòa Philippines

Nội các

Quan chứcTênNhiệm kỳ
Tổng thốngJosé P. Laurel1943–1945
Phó Tổng thốngBenigno S. Aquino1943–1945
Thủ tướngJorge B. Vargas1943-1945
Bộ trưởng Nông nghiệp và Thương mạiRafael Alunan1943–1945
Bộ trưởng Y tế, Lao động và Đào tạo công cộngEmiliano Tria Tirona1943–1945
Bộ trưởng Tài chínhAntonio de las Alas1943–1945
Bộ trưởng Ngoại giaoClaro M. Recto1943–1945
Bộ trưởng Tư phápTeofilo Sison1943–1945
Bộ trưởng Giáo dụcCamilo Osías1943–1945
Bộ trưởng Công chính và Truyền thôngQuentin Paredes1943–1945

Hội nghị Đại Đông Á

Hội nghị Đại Đông Á trong tháng 11 năm 1943, những người tham dự từ trái sang phải: Thủ tướng Miến Điện Ba Maw, Thủ tướng Mãn Châu Quốc Trương Cảnh Huệ, Tổng thống Trung Quốc (Nam Kinh) Uông Tinh Vệ, Thủ tướng Nhật Bản Hideki Tōjō, Thủ tướng Thái Lan Wan Waithayakon, Tổng thống Philippines José P. Laurel, Tổng thống Ấn Độ tự do Subhas Chandra Bose

Hội nghị Đại Đông Á (大東亜会議, Dai Tōa Kaigi?) là một hội nghị thượng đỉnh quốc tế được tổ chức tại Tokyo từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 11 năm 1943. Hội nghị ít có kết quả thực chất nào, mà nhằm mục tiêu từ đầu là để tuyên truyền cho cam kết của Nhật Bản với lý tưởng liên Á và để nhấn mạnh vai trò của họ là "người giải phóng" châu Á khỏi chủ nghĩa thực dân phương Tây.[6]

Hội nghị với tuyên bố chính thức vào ngày 6 tháng 11 chỉ là một cử chỉ tuyên truyền nhằm thu thập sự ủng hộ khu vực cho giai đoạn mới của đại chiến, phác thảo các lý tưởng đấu tranh.[7] Tuy nhiên, hội nghị đánh dấu mốc trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản và quan hệ giữa họ với các quốc gia châu Á khác. Thất bại của quân Nhật tại Guadalcanal và gia tăng nhật thức về tính hạn chế của năng lực quân sự Nhật Bản khiến giới lãnh đạo dân sự Nhật Bản nhận thức rằng một khuôn khổ dựa trên hợp tác, thay vì thống trị thực dân có thể huy động nhiều hơn nhân lực và tài nguyên chống lại lực lượng Đồng Minh đang nổi lên. Đây cũng là khởi đầu cho các nỗ lực nhằm lập một khuôn khổ theo đó cho phép một số hình thức thỏa hiệp ngoại giao khi giải pháp quân sự hoàn toàn thất bại.[7] Tuy nhiên, các động thái này là quá trễ để cứu Đế quốc, họ đầu hàng Đồng Minh chưa đầy hai năm sau hội nghị.

Các vấn đề

Trong nhiệm kỳ của mình, Laurel phải đối diện với nhiều vấn đề quốc gia, chẳng hạn như:

  • Thiếu hụt lương thực, y phục, dầu, và các nhu yếu phẩm khác.
  • Hiện diện quân sự cao độ của Nhật Bản trên toàn khu vực.[8]
  • Nhật Bản kiểm soát giao thông, báo chí và thông tin.

Laurel nỗ lực nhằm thể hiện rằng độc lập của cộng hòa là chận thực bằng cách giải quyết các vấn đề này.

Thiếu hụt lương thực

Dành ưu tiên giải quyết thiếu hụt lương thực, ông tổ chức một cơ quan để phân phối gạo, mặc dù hầu hết gạo bị quân Nhật sung công. Manila là một trong những địa điểm tại Philippines chịu cảnh thiếu lương thực khắc nghiệt, chủ yếu do một cơn bão tấn công quần đảo trong tháng 11 năm 1943. Nhân dân buộc phải trồng các loại cây như rau muống.[9] Nhằm nâng cao sản lượng gạo tại Philippines, người Nhật đưa đem đến lúa horai sinh trưởng nhanh, là giống được sử dụng lần đầu tại Đài Loan.[10] Lúa Horai được dự tính khiến Philippines tự cung cấp được gạo trong năm 1943, song các cơn mưa năm 1942 ngăn cản điều này.[11]

Tiền Nhật Bản

500 Peso Philippines do Nhật phát hành

Lần phát hành đầu tiên trong năm 1942 có các mệnh giá 1, 5, 10 và 50 centavo và 1, 5, và 10 Peso. Năm sau đưa ra tiếp "giấy bạc thay thế" mệnh giá 1, 5 và 10 Peso trong khi năm 1944 phát hành tờ 100 Peso và ngay sau một cuộc lạm phát lại phát hành tiền mệnh giá 500 Peso. Năm 1945, người Nhật phát hành tiền mệnh giá 1.000 Peso. Điều này khiến tiền mới, vốn được in từ tận trước chiến tranh, được người Philippines gọi là tiền chuột Mickey do giá trị rất thấp do lạm phát nghiêm trọng. Các báo chống Nhật miêu tả các câu chuyện đi vào chợ với các va ly hoặc "bayong" (loại túi địa phương) đầy ngân phiếu do Nhật phát hành.[3] Năm 1944, một hộp diêm có giá trên 100 peso chuột Mickey.[12] Năm 1945, một kg khoai lang có giá khoảng 1000 peso chuột Mickey.[13] Lạm phát gây hại cho đất nước với việc tiền Nhật mất giá, bằng chứng là lạm phát nghiêm trọng 60% trong tháng 1 năm 1944.[14]

Giáo dục

Các binh sĩ Nhật dán các bức hình để dạy tiếng Nhật.

Người Nhật cho phép tiếng Tagalog trở thành quốc ngữ của Philippines.[15] Nhằm mục tiêu này một phiên bản giản lược gồm 1000 từ tiếng Tagalog được xúc tiến để những người chưa thành thạo ngôn ngữ này học.[16] Tình yêu lao động được khuyến khích, như các chương trình tuyển mộ lao động lớn của KALIBAPI giữa năm 1943. Truyền bá văn hóa Philippines và Nhật Bản được tiến hành. Các trường học được mở lại, vào đỉnh cao có tổng cộng 300.000 học sinh.[17]

Kết thúc

Ngày 21 tháng 9 năm 1944, Laurel đặt Cộng hòa dưới thiết quân luật.[18] Ngày 23 tháng 9 năm 1944, Cộng hòa chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ và Anh.[19] Sau khi Đồng Minh trở lại, chính phủ Đệ nhị Cộng hòa triệt thoái từ Manila đến Baguio.[20] Cộng hòa chính thức bị Laurel giải thể tại Tokyo vào ngày 17 tháng 8 năm 1945.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đệ Nhị Cộng hòa Philippines http://www.angelfire.com/al4/al_den/laurel.htm http://ww2db.com/country/philippines http://www.filipiniana.net/publication/constitutio... http://www.lawphil.net/executive/proc/proc_29_1944... http://www.lawphil.net/executive/proc/proc_30_1944... http://books.google.com.ph/books?id=GVNaTk9nLosC&p... http://books.google.com.ph/books?id=gUt5v8ET4QYC&p... http://www.pangulo.ph/prexy_jpl.php https://books.google.com/books?id=FiEMgP36lScC&pg=... https://books.google.com/books?id=QKgraWbb7yoC&lpg...